3 năm đầu đi vào hoạt động Nghi Sơn lỗ gấp 15 lần Dung Quất.
Hiện nay, nguồn cung xăng dầu trong nước đến từ 2 Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn (thuộc Công ty TNHH Lọc hoá dầu Nghi Sơn) và Nhà máy lọc dầu Dung Quất (thuộc Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn-BSR), đáp ứng khoảng 75% nhu cầu thị trường. Dù là 2 nhà máy lọc dầu chủ lực của cả nước nhưng hiệu quả hoạt động của 2 nhà máy này hoàn toàn trái ngược nhau.
Lọc Hóa Dầu Nghi Sơn được thành lập tháng 4/2008 với tổng vốn đầu tư 9 tỷ USD chính thức vận hành thương mại từ cuối năm 2018. Cổ đông của công ty gồm Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) nắm 25,1%; Công ty Idenmitsu Kosan (Nhật Bản) nắm 35,1%, Công ty Hóa chất Mitsui (Nhật Bản) sở hữu 4,7% và Tập đoàn dầu mỏ Cô-oét 35,1%. Công suất giai đoạn 1 là 200.000 thùng dầu thô/ngày, tương đương 10 triệu tấn dầu thô/năm, gần gấp đôi Nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quảng Ngãi).
Tuy nhiên, trong 3 năm hoạt động từ 2018 – 2020, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn đã lỗ tổng cộng 61.200 tỷ đồng. Cụ thể, ngay năm đầu tiên đi vào hoạt động thương mại Nghi Sơn đã lỗ 10.412 tỷ đồng, năm 2019 lỗ nâng lên 22.684 tỷ đồng, năm 2020 số lỗ lên mức kỷ lục 28.147 tỷ đồng. Vốn chủ sở hữu của Nghi Sơn (50.000 tỷ) đã âm hơn 11.000 tỷ đồng. Doanh thu năm 2019 đạt 86.675 tỷ thì năm 2020 chỉ còn 74.848 tỷ đồng.
Trong khi đó, Công ty TNHH MTV Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) được thành lập năm 2008 với 100% vốn góp của PVN, mục đích là tiếp nhận và vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Công ty có vốn điều lệ 35.000 tỷ đồng, tại thời điểm đó, Bình Sơn lọt vào top 6 doanh nghiệp có vốn lớn nhất Việt Nam.
Bắt đầu từ 30/5/2010, Dung Quất chính thức chuyển sang giai đoạn vận hành thương mại. Trong một báo cáo gửi lên Chính phủ , PVN đã tiết lộ mức lỗ của nhà máy này từ khi đi vào vận hành. Năm 2010, công ty lỗ gần 3.200 tỷ đồng, năm 2011 lỗ gần 4.800 tỷ đồng. Năm 2012, năm 2013 lần lượt lỗ trên 6.400 và 6.000 tỷ đồng. Năm 2014 Lọc hóa dầu Bình Sơn lỗ 7.136 tỷ đồng…
Tuy nhiên, khoản ưu đãi giữ lại thuế nhập khẩu đã giúp gánh bớt lỗ cho Dung Quất, khi đơn vị này chỉ còn lỗ 1.300-3.000 tỷ đồng vào năm 2011 và 2012, trước khi hạch toán lãi gần 3.000 tỷ vào năm 2013 nhờ được giữ lại tới 8.856 tỷ đồng.
Lỗ của Nhà máy lọc dầu Dung Quất trước và sau cơ chế cấp bù thuế nhập khẩu 3-7% các mặt hàng xăng dầu
Như vậy, 3 năm đầu tiên Dung Quất lỗ tổng cộng 14.092 tỷ đồng nếu như không được ưu đãi giữ lại 3-7% thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, số lỗ được giảm đáng kể khi nhà máy được giữ lại thuế nhập khẩu. Năm 2010, Dung Quất được giữ lại 3.305 tỷ đồng, năm 2011 là 1.836 tỷ đồng, năm 2012 là 4.122 tỷ đồng. Tổng cộng 3 năm, Dung Quất được giữ lại nguồn thuế nhập khẩu khiến cho tổng số lỗ 3 năm đầu đi vào hoạt động giảm xuống 4.129 tỷ đồng.
Trong 3 năm đầu đi vào hoạt động nhà máy lọc dầu Dung Quất chỉ lỗ 4.129 tỷ đồng trong khi Nghi Sơn lỗ tới 61.200 tỷ. So sánh này chỉ mang tính tương đối bởi bối cảnh đi vào hoạt động khác nhau, tổng quy mô vốn đầu tư và trích khấu hao khác nhau, giá dầu mỗi giai đoạn mỗi khác… Tuy nhiên, ngay cả trong bối cảnh cùng giai đoạn từ 2018-2020, Bình Sơn cũng có lãi 3.572 tỷ đồng. Năm 2020 khi giá dầu lao về mức âm sau đó hồi trở lại, Bình Sơn ghi nhận mức lỗ 2.858 tỷ đồng thua xa so với mức lỗ 28.147 tỷ đồng của Nghi Sơn.
Ngay cả trong cùng điều kiện giá dầu, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn vẫn lỗ cao gấp nhiều lần Dung Quất
Càng lỗ lớn PVN càng phải cấp bù lớn?
Cơ chế ưu đãi cho Dung Quất được đánh giá là rất lớn. Tháng 11/2009, Chính phủ đã ban hành quyết định cho phép Lọc hóa dầu Bình Sơn được giữ lại số tiền tương đương 3% thuế nhập khẩu mỗi năm đối với sản phẩm hóa dầu, 5% đối với LPG và 7% đối với các sản phẩm xăng dầu. Dung Quất sẽ không được cấp bù trong trường hợp thuế suất nhập khẩu thấp hơn mức ưu đãi.
Tuy nhiên, với ưu đãi này, năm 2011-2012, Dung Quất vẫn lỗ lớn do thuế suất nhập khẩu xăng dầu thời điểm đó thấp hơn mức giá trị ưu đãi. Trước tình hình đó, tháng 7/2012, PetroVietnam kiến nghị Chính phủ và sau đó có quyết định cho Dung Quất vẫn được giữ lại mức 3-7% thuế nhập khẩu, ngay trong trường hợp Nhà nước quy định thuế suất thuế nhập khẩu thấp hơn mức ưu đãi, doanh nghiệp sẽ vẫn được cấp bù khoản tiền này.
Ngoài ra, Dung Quất còn được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ 10% trong vòng 30 năm, trong đó miễn thuế hoàn toàn trong vòng 5 năm đầu, giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo.
Đối với lọc dầu Nghi Sơn, theo thỏa thuận giữa Chính phủ – do PVN thay mặt ký với liên doanh nhà đầu tư, PVN sẽ là đơn vị bao tiêu sản phẩm của Nghi Sơn, với giá bán buôn tại cổng nhà máy bằng với giá xăng dầu nhập khẩu mà cộng thêm thuế nhập khẩu 7% với các sản phẩm xăng dầu, 3% đối với các sản phẩm hóa dầu (polypropylen, benzen…). Trong 10 năm (đến 2028), nếu Việt Nam giảm thuế nhập khẩu xuống thấp hơn mức ưu đãi kể trên, PVN sẽ có trách nhiệm bù cho Lọc dầu Nghi Sơn số tiền chênh lệch này.
Trên thực tế, theo Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), với xăng từ năm 2023 thuế nhập khẩu sẽ xuống 5% và từ năm 2024 là 0%. Diesel và mazut là 0% từ năm 2016. Còn theo Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), thuế nhập khẩu diesel từ 2016 là 5% và từ năm 2018 là 0%, riêng mazut từ năm 2016 thuế nhập khẩu đã là 0%.
Như vậy, giữa các thoả thuận đã có sự “chệch nhau” rất lớn, đặc biệt là cơ chế cấp bù thuế nhập khẩu từ 3-7% với các mặt hàng xăng dầu dẫn đến việc PVN sẽ phải bù lỗ hàng tỷ đô cho Nghi Sơn.
Ý kiến chuyên gia
Nhà máy Nghi Sơn hiện cung ứng khoảng 30 – 35% thị phần xăng dầu tại Việt Nam. Do đó, việc dừng nhà máy có tác động rất lớn tới thị trường xăng dầu Việt Nam.
Theo một chuyên gia có nhiều năm công tác trong ngành Công Thương, nhà máy lọc dầu Nghi Sơn có vốn nước ngoài chi phối, PVN chỉ chiếm 25,1%. Với tỉ lệ nắm giữ vốn thấp, phía Việt Nam không quyết định trong điều hành và biểu quyết trong hội đồng cũng chỉ có ý nghĩa đồng thuận tuyệt đối hay không.
Hiện các nhà máy lọc dầu trong nước chỉ đáp ứng được hơn 70% lượng xăng dầu trong nước, còn lại Việt Nam vẫn nhập khẩu lớn từ Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan (khoảng 5 triệu tấn năm 2020). Tổng lượng tiêu thụ xăng dầu cả nước là khoảng hơn 20 triệu tấn.
“Bức tranh thị trường xăng dầu của ta phụ thuộc cả trong nước và nhập khẩu. Sản lượng trong nước chỉ đáp ứng chừng 70%. Dầu thô khai thác trong nước không đủ cho công suất lọc dầu. Bất cứ biến động nào của nguồn cung về sản lượng cũng như giá cả đều ảnh hưởng đến tiêu dùng trong nước. Câu chuyện của những ngày này là việc cắt giảm công suất của Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn”, vị chuyên gia nói.
Năm 2020 Nhà máy lọc dầu Dung Quất lỗ hơn 2.500 tỷ đồng, nhưng năm 2021 lại lãi hơn 6.000 tỷ đồng. Trong khi đó Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn lỗ 61.000 tỷ đồng sau 3 năm hoạt động. Vị này cho rằng khi doanh nghiệp lỗ sẽ thiếu hụt dòng tiền, không có tiền thì không nhập được dầu thô để lọc, không nhập được thì phải giảm công suất. Giảm công suất thì càng không hiệu quả. Đấy là câu chuyện của nhà sản xuất.
“Câu chuyện lỗ của một doanh nghiệp thì phải có số liệu hoạt động của họ mới phân tích được. Giá dầu thô thì giá quốc tế, giá đầu ra cũng theo thị trường. Tuy nhiên, nhiều lần mua dầu thô lúc giá cao, bán thành phẩm lúc giá xuống cũng lỗ. Không có ưu thế đàm phán thì không mua được giá tốt. Tồn kho nhiều cũng làm tăng chi phí vốn và hao hụt. Công suất khai thác chưa đạt cũng lỗ. Ngoài ra, còn hàng loạt chi phí hoạt động, trích khấu hao…
Doanh nghiệp không phải vốn nhà nước thì chẳng cần phải bảo họ cũng sẽ đóng cửa khi không nhìn thấy hướng có lãi. Quản lý đầu tư nước ngoài thì hoàn toàn có đủ dữ liệu để đánh giá phân tích nguyên nhân lỗ thực của họ. Chưa kể đã có dữ liệu của nhà máy Dung Quất để so sánh. Có một điều thực tế là một lít xăng phải chịu 10% thuế Thuế tiêu thụ đặc biệt, 10% VAT, 4.000 đồng phí môi trường. Doanh nghiệp có lãi thường cũng chỉ vài %”, vị chuyên gia nhấn mạnh.
Trong khi đó, PVN cho rằng, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn được đưa vào vận hành thương mại trong bối cảnh toàn thế giới có xu thế dịch chuyển nguồn năng lượng mạnh mẽ (năng lượng tái tạo, thay thế động cơ đốt trong bằng động cơ điện nên nhu cầu xăng dầu giảm), thị trường biến động bất lợi, biên lợi nhuận chế biến của ngành lọc dầu giảm mạnh và tác động của dịch bệnh Covid-19 đã làm ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của dự án.
Bên cạnh đó, do PVN chỉ nắm hơn 25% cổ phần, nên công tác quản trị của Nghi Sơn do phía nước ngoài điều hành còn nhiều bất cập cũng đã góp phần vào các khó khăn về tài chính hiện nay của Nghi Sơn. Do đó, việc tái cấu trúc tổng thể Nghi Sơn là nhu cầu cần thiết và cấp bách. PVN đang trong giai đoạn đàm phán với các bên góp vốn nước ngoài về nội dung tái cấu trúc tổng thể Nghi Sơn.
Nguồn: https://cafef.vn/vi-dau-nha-may-loc-dau-nghi-son-lo-61200-ty-trong-3-nam-dau-hoat-dong-trong-khi-dung-quat-bsr-chi-lo-hon-4000-ty-20220215123425565.chn